Trong giới khoa học, bên cạnh những cái tên như Albert Einstein, Thomas Edison, Stephen Hawking… thì Marie Curie còn được biết tới là nữ bác học thiên tài với những phát minh thay đổi nhân loại. Tuy nhiên cho đến này, vẫn có nhiều người thắc mắc nhà bác học Marie Curie là ai? Cùng ANB Việt Nam đi tìm hiểu ngay nhé.
Tiểu sử nhà bác học Marie Curie
Nhà bác học Marie Curie (tên khai sinh là Maria Salomea Skłodowska) sinh ngày 7 tháng 11 năm 1867 tại Ba Lan và mất ngày 4 tháng 7 năm 1934 tại Pháp. Bà là con út trong gia đình có 5 người con, sau các anh chị em Zosia, Józef, Bronya và Hela.
Nhà vật lý Marie Curie có cả cha và mẹ đều là giáo viên. Cha của bà, Wladyslaw, là một giảng viên toán và vật lý. Khi mới 10 tuổi, mẹ của Marie Curie qua đời vì bệnh lao. Sau khi mẹ bà qua đời, hoàn cảnh gia đình của bà ngày càng khó khăn. Vì vậy, bà trở thành một nữ gia sư để trang trải cho cuộc sống, tự học và nghiên cứu để giải tỏa niềm đam mê của mình.
Nhà bác học Marie Curie đã nổi bật vì trí nhớ phi thường của mình
Tiểu sử Marie Curie khiến nhiều người không khỏi tò mò. Từ thời thơ ấu, nhà bác học Marie Curie đã nổi bật vì trí nhớ phi thường của mình. Ở tuổi 16, bà giành được huy chương vàng khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học tại trường Lycée Nga.
Cả Curie và chị gái Bronya đều mơ ước được ra nước ngoài học tập và lấy bằng chính thức, nhưng họ không đủ tài chính để trang trải cho việc học thêm. Không nản lòng, Marie Curie đã thỏa thuận với chị gái của mình: Bà sẽ làm việc để hỗ trợ Bronya đi học và chị gái sẽ trở lại giúp đỡ sau khi hoàn thành việc học của mình.
Trong khoảng 5 năm bà đã làm việc chăm chỉ đồng thời sử dụng thời gian rảnh rỗi của mình để nghiên cứu, đọc về vật lý, hóa học và toán học.
Vào năm 1891, ước mơ của Marie Curie đã trở thành hiện thực, bà chuyển đến Pháp và bắt đầu hành trình theo đuổi đam mê của mình.
Marie Curie nhập học tại Đại học Sorbonne ở Paris. Tại đây, bà đã phát hiện ra niềm yêu thích đối với các môn tự nhiên và niềm đam mê nghiên cứu của mình. Cũng ở đây, bà đã gặp các nhà vật lý đã nổi tiếng – Jean Perrin, Charles Maurian và Aimé Cotton.
Bà làm việc thâu đêm suốt sáng trong khu trọ dành cho sinh viên của mình và hầu như chỉ sống bằng bánh mì, bơ và trà. Bà bắt đầu làm việc trong phòng thí nghiệm nghiên cứu của Lippmann vào năm 1894. Đây được coi là một trong những bước đi đầu tiên trên hành trình cống hiến cho khoa học của nhà hóa học Marie Curie trong tương lai.
Trong thời gian này Marie Curie đã gặp Pierre Curie và sớm nảy sinh tình cảm. Cuộc hôn nhân của họ (ngày 25 tháng 7 năm 1895) đánh dấu sự khởi đầu đột phá của khoa học. Năm 1897, cả hai chào đón một cô con gái đầu lòng là Irène. Sau đó, bà hạ sinh người con gái thứ hai là Ève vào năm 1904.
Cho đến tận ngày nay nhiều người vẫn làm làm visa Ba Lan để tìm hiểu thêm về nhà nữ bác học số một thế giới này
Những phát minh, cống hiến vĩ đại của Marie Curie
Trong suốt sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình, Marie Curie đã mở ra những bước đột phá mới thay đổi cả thế giới. Trong số đó phải kể đến 2 phát minh vĩ đại gắn liền với 2 giải thưởng Nobel của bà.
Marie Curie đạt giải Nobel vật lý
Phát minh ra phóng xạ
Nhà vật lý Marie Curie nhận giải Nobel Vật lý năm 1903, cùng với chồng và Henri Becquerel, cho công trình nghiên cứu về phóng xạ. Với thành quả đột phá này, họ đã đưa tên tuổi và phát minh của mình vươn ra tầm thế giới. Không lâu sau đó, nhóm của bà đã sử dụng số tiền thưởng này để tiếp tục nghiên cứu.
Phát minh của Marie Curie được lấy cảm hứng từ công trình của Henri Becquerel, một nhà vật lý người Pháp. Ông đã phát hiện ra rằng uranium phát ra tia yếu hơn tia X.
Marie Curie đã tiến hành các thí nghiệm của riêng mình đối với các tia uranium và phát hiện ra rằng chúng không đổi, bất kể điều kiện hay hình thức của uranium bị thay đổi. Theo lý thuyết, các tia này đến từ cấu trúc nguyên tử của nguyên tố. Ý tưởng mang tính cách mạng này đã tạo ra bước đột phá trong lĩnh vực vật lý nguyên tử. Chính Curie đã đặt ra từ “phóng xạ” để mô tả các hiện tượng này.
Phóng xạ chính là điều khiến cho chúng ta nhớ đến Marie Curie hơn cả
Sau khi phát hiện ra phóng xạ, bà tiếp tục việc với khoáng chất pitchblende. Nhà vật lý Marie Curie và chồng đã đặt tên cho nguyên tố này là polonium, theo tên quê hương của bà là Ba Lan.
Họ cũng phát hiện ra sự hiện diện của một chất phóng xạ khác trong máy chiếu và gọi là radium. Năm 1902, nhà Curies thông báo rằng họ đã sản xuất ra một decigram radium nguyên chất, chứng tỏ sự tồn tại của nó như một nguyên tố hóa học độc nhất.
Năm 1906, cuộc đời của Marie gặp phải bi kịch khi Pierre không may qua đời trong một vụ tai nạn trên đường phố sau khi bị một con ngựa và xe đẩy húc ngã. Tuy nhiên, tinh thần bất khuất của nhà bác học Marie Curie đã giúp bà tiếp tục làm việc. Bà kế nhiệm vị trí Giáo sư tại Sorbonne của chồng cũng như tiếp tục công việc giảng dạy ở nơi ông đã bỏ dở.
Vào tháng 10 năm 1914, những chiếc máy đầu tiên được gọi là “Petits Curies” ra đời. nhà vật lý Curie đã làm việc với con gái Irene, khi đó 17 tuổi, tại các trạm thu dọn thương vong gần tiền tuyến.
Công nghệ mà Marie Curie phát triển cho “Petits Curies” tương tự như công nghệ được sử dụng ngày nay trong máy soi huỳnh quang tại nhà tế bần Hampstead. Máy X-quang cho phép bác sĩ kiểm tra các hình ảnh chuyển động trong cơ thể, chẳng hạn như hoạt động bơm máu của tim hoặc chuyển động nuốt.
Sau chiến tranh, Marie tiếp tục công việc của mình với tư cách là một nhà nghiên cứu, giáo viên và trưởng phòng thí nghiệm và nhận được nhiều giải thưởng lớn nhỏ. Trong số đó có Giải thưởng nghiên cứu Ellen Richards (1921), Giải thưởng Grand Prix du Marquis d’Argenteuil (1923) và Giải thưởng Cameron của Đại học Edinburgh (1931). Bà cũng là người nhận được nhiều bằng danh dự của các trường đại học trên thế giới.
Tìm ra ra radium và polonium
Quyết tâm và những nỗ lực không ngừng nghỉ một lần nữa giúp bà nhận giải thưởng Nobel thứ hai vào năm 1911. Lần này, bà nhận giải thưởng với tư cách nhà hóa học Marie Curie vì đã tạo ra một phương tiện đo độ phóng xạ. Trong lần nhận giải thứ hai, Curie đã chia sẻ niềm vinh dự cùng với người chồng quá cố trong bài phát biểu của mình.
Radium là một trong hai nguyên tố duy nhất có thể phân lập được ở trạng thái tinh khiết cho đến nay, giống với bari kim loại về các tính chất hóa học của nó. Trọng lượng nguyên tử của nó được xác định bởi Mme. Curie là 226,45. Chỉ đến năm 1910 Marie Curie, với sự giúp đỡ của đồng nghiệp, đã thành công trong việc tạo ra radium ở trạng thái tinh khiết.
Nghiên cứu về radium đã dẫn đến sự ra đời của một ngành khoa học mới có tên X quang. Phát minh này đã mở ra nhiều cơ hội cho các ngành khoa học tự nhiên khác, chẳng hạn như vật lý, khí tượng, địa chất và sinh lý học. Radium được sử dụng trong y học mà tiêu biểu là để xạ trị, đặc biệt là trong điều trị các khối ung thư và bệnh lupus.
Theo các chuyên gia, tầm quan trọng của việc phát hiện ra radium có ý nghĩa to lớn đối với hóa học nói riêng cũng như sự phát triển của con người nói chung.
Không lâu sau, Sorbonne xây dựng viện radium đầu tiên với hai phòng thí nghiệm: Một để nghiên cứu phóng xạ dưới sự chỉ đạo của Marie Curie, và một để nghiên cứu sinh học trong việc điều trị ung thư.
Nhà bác học Marie Curie đã tạo ra nhiều đột phá trong cuộc đời của mình. Được nhớ đến như một nhân vật hàng đầu trong khoa học và một hình mẫu cho phụ nữ, bà đã nhận được rất nhiều danh hiệu cao quý và được nhân loại tôn vinh.
4 bí mật về Marie Curie bị chôn giấu suốt một thế kỷ
Nhà vật lý kiêm hóa học Curie đã mất một thế kỷ, nhưng ấn tượng về người mạnh mẽ, thông minh và ý chí kiên cường vẫn còn tồn tại qua nhiều thế kỷ. Lịch sử đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên sự đóng góp và các phát minh vĩ đại cả nhà bác học Marie Curie thì trường tồn với thời gian. Cùng Công ty ANB Việt Nam tìm hiểu đôi điều về nhà bác học đặc biệt này nhé
Nhà bác học Marie Curie là người đầu tiên nhận 2 giải Nobel
Nữ khoa học Marie Curie đã giành được hai giải Nobel cho vật lý vào năm 1903 và cho hóa học vào năm 1911. Bà là một trong những người phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel cũng như là người đầu tiên trên thế giới giành được giải thưởng danh giá này hai lần. Được biết đến là nhà vật lý đồng thời là nhà hóa học kiệt xuất, Marie Curie vẫn là người duy nhất được vinh danh vì những thành tựu và phát minh vĩ đại của mình.
Bà nhận được 2 giải Nobel cho những cống hiến của mình
Gia đình kiệt xuất có “gen” đạt giải Nobel
Con gái lớn của nhà vật lý Marie Curie Irene theo chân “người mẹ bác học” của mình bước vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học và cùng với chồng là Frederic Joliot. Hai người làm việc trên hạt nhân của nguyên tử và cùng nhau nhận giải Nobel và được công nhận là người phát hiện ra bức xạ nhân tạo.
Irene cũng qua đời vì một căn bệnh liên quan đến phóng xạ vào năm 1956. Con gái của Irene và cháu gái của Marie Curie, Hélène Langevin-Joliot, tiếp tục là một nhà vật lý hạt nhân nổi tiếng.
Cô con gái thứ hai của nhà vật lý Marie Curie và chồng là Eve trở thành nhà báo và nhà văn. Năm 1954, bà Curie kết hôn cùng với ông Henry Richardson Labouisse (1904-1987) – là một nhà ngoại giao và nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Ông còn là giám đốc Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) trong 4 năm 1965-1969.
Vào năm 1965, tổ chức UNICEF bất ngờ được nhận giải Nobel Hòa bình cho việc thúc đẩy tương trợ giữa các quốc gia. Điểm trùng hợp là con rể của Marie Curie vinh dự thay mặt UNICEF nhận giải thưởng cao quý này.
Những cuốn sổ ghi chép của bà vẫn còn nhiễm phóng xạ
Sau hơn 100 năm, hầu hết các vật dụng cá nhân của Curie bao gồm quần áo, đồ đạc, sách dạy nấu ăn và ghi chú trong phòng thí nghiệm của cô ấy vẫn còn phóng xạ.
Cho đến tận ngày nay những đồ vật mà Marie Curie từng sử dụng qua vẫn còn bị nhiễm phóng xạ
Được coi là báu vật quốc gia và khoa học, sổ ghi chép trong phòng thí nghiệm của Curie được cất giữ trong những chiếc hộp có lót chì tại Bibliotheque National của Pháp ở Paris.
Mặc dù thư viện cho phép khách truy cập xem các bản thảo của Curie, nhưng tất cả khách phải ký giấy miễn trừ trách nhiệm và mặc đồ bảo hộ vì các vật dụng bị nhiễm radium 226, có tuổi thọ khoảng 1.600 năm, theo Christian Science Monitor.
Marie Curie từng dính vào bê bối tình ái
Năm 1911, tin đồn lan truyền rằng Marie Curie có quan hệ tình cảm với nhà vật lý lỗi lạc Paul Langevin, một người đàn ông kém bà 5 tuổi. Người này từng là học trò của Pierre và làm việc thân thiết với Albert Einstein.
Người vợ của Langevin đã phát hiện ra những bức thư tình của Curie gửi cho chồng và đưa chúng cho một tờ báo lúc đó. Các trang báo đăng những câu chuyện với các tiêu đề như “Một sự lãng mạn trong phòng thí nghiệm”.
Danh tiếng của nhà bác học Marie Curie đã bị ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, cả Curie và Langevin đều không có bất cứ phát ngôn nào về mối quan hệ của họ với người ngoài. Trong một chia sẻ riêng tư, bà cho biết: “Đối với tôi việc nghiên cứu công trình khoa học và cuộc sống riêng tư là hai lĩnh vực tách bạch”.
Sau này, do sự im lặng của cả hai bên nên ồn ào này dẫn đi vào dĩ vãng.
Marie Curie nhiễm phóng xạ và qua đời
Cuối năm 1911, Curie ốm nặng. Bà được phẫu thuật để loại bỏ các tổn thương ở tử cung và thận, sau đó là một thời gian dài hồi phục. Năm 1913, bà bắt đầu đi du lịch trở lại và trở lại với khoa học. Vào tháng 3 năm đó, Einstein đã có chuyến thăm với Marie Curie. Sau đó bà mở cửa và đứng đầu một cơ sở nghiên cứu mới ở Warsaw.
Marie Curie qua đời vì nhiễm phóng xạ
Do nhiều thập kỷ xử lý và tiếp xúc trong thời gian nghiên cứu, nhà vật lý kiêm hóa học Marie Curie bị nhiễm phóng xạ nặng nề. Ở thời điểm đó, những tác động của phóng xạ vẫn chưa được biết đến. Vào những năm 1920, bà bị đau nhức cơ, thiếu máu, đục thủy tinh thể và một loạt các triệu chứng khác.
Khi nhà bác học Marie Curie qua đời ở tuổi 66 vào năm 1934, các phương tiện báo chí truyền thông đồng loạt vinh danh người phụ nữ vĩ đại này. Thời báo New York gọi bà là một “người tử vì đạo cho khoa học”, người đã “đóng góp nhiều hơn cho phúc lợi chung của nhân loại”.
Nhà vật lý Robert Millikan, chủ tịch Viện Công nghệ California đã đưa ra một tuyên bố công khai: “Cô ấy đã không ngừng nỗ lực trong công việc khoa học và dành nhiều thời gian cho sự nghiệp hòa bình… Marie Curie mang trong mình tất cả những đức tính giản dị, chất phác và hoàn hảo nhất của người phụ nữ”.
Năm 1995, hài cốt của Marie và Pierre được an táng tại Điện Panthéon ở Paris, nơi an nghỉ cuối cùng của những bộ óc vĩ đại nhất nước Pháp. Nhà khoa học Marie Curie trở thành người đầu tiên và là một trong năm phụ nữ duy nhất được an nghỉ ở đó. Năm 2017, Panthéon đã tổ chức một cuộc triển lãm để tôn vinh sinh nhật lần thứ 150 của nhà khoa học tiên phong.
Với những thông tin ANB VIệt Nam chia sẻ trên bạn đã biết nhà bác học Marie Curie là nhà nữ bác học lừng danh đầu tiên của thế giới khoa học. Bà đã đi tiên phong trong công cuộc khảo cứu chất phóng xạ. Bạn còn có thêm tin mới về thủ tướng Canada? Hãy cùng chia sẻ với mọi người nhé.
Xem thêm===> Nhạc Chopin là loại nhạc như thế nào ? – Tiểu sử thiên tài âm nhạc Ba Lan